A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Khảo sát sự di truyền trong hệ gen ở lục lạp và 45 nrDNAS của loài nhân sâm (PANAX GINSENG)

Nghiên cứu này đã đưa ra trình tự đầy đủ của DNA lục lạp (cpDNA) và gen 45S DNA ribosom nhân (45S nrDNA) của 11 giống nhân sâm thuộc loài Panax ginseng

 

Kim K và cs.

PLoS One, 2015, 10(6)

Nghiên cứu này đã đưa ra trình tự đầy đủ của DNA lục lạp (cpDNA) và gen 45S DNA ribosom nhân (45S nrDNA) của 11 giống nhân sâm thuộc loài Panax ginseng. Đây là các gen mục tiêu đại diện cho tế bào chất và hệ gen nhân của mỗi giống. Kích thước hệ gen lục lạp dao động từ 156,241 đến 156,425 bp và sự thay đổi kích thước lớn nhất được bắt nguồn từ sự khác biệt về số lượng bản sao của đoạn lặp lại ở gen ycf1 và các vùng giữa các gen của rps16-trnUUG và rpl32-trnUAG. Các trình tự đơn vị 45S nrDNA đầy đủ là 11.091 bp, đại diện cho một đơn vị phiên mã duy nhất với một vùng ranh giới giữa các gen mã hóa. So sánh các trình tự này cũng như những kết quả nghiên cứu được công bố trước đó đối với trình tự gen tương tự của 3 giống sâm Trung Quốc đã xác định dạng đa hình rất hiếm nhưng duy nhất trong hệ gen lục lạp của các giống sâm thuộc loài  P. ginseng. Có 12 đa hình trong nội bộ loài (6 SNPs và 6 InDels) trong số 14 giống. Từ  11 giống sâm Hàn Quốc cũng đã xác định được 5 SNPs từ 45S nrDNA. Từ 17 điểm đa hình thông tin duy nhất, 6 chỉ thị đáng tin cậy đã được xác định phục vụ cho phân tích về sự đa dạng di truyền và nhận dạng giống.

T. V. Vượng

MỐI QUAN HỆ GIỮA SỰ ĐA DẠNG DI TRUYỀN VỚI CẤU TRÚC HÓA HỌC CỦA SÂM MỸ (PANAX QUINQUEFOLIUS L.)

 

Schlag EM và cs.

Phytochemistry, 9,2013;93:96-104 Sự khác biệt về các đặc tính y học của rễ sâm đã được chzo là phụ thuộc vào sự khác nhau trong thành phần các hợp chất ginsenoside. Trong nghiên cứu này, mối liên kết giữa đặc điểm di truyền và hóa học  của rễ sâm Mỹ (Panax quinquefolius L.)  mọc hoang và trồng ở Maryland đã được khám phá. Rễ nhân sâm được phân loại theo hóa học (chemotypes) dựa vào thành phần Re và Rg1. Đặc điểm di truyền của rễ được xác định bằng việc phân tích 38 chỉ thị RAPD đa hình, từ đó xác định tương đồng di truyền. Sự liên quan chặt chẽ giữa chemotype và phân tích đa dạng di truyền trong nghiên cứu này là bằng chứng DNA đầu tiên cho cơ sở di truyền của các hợp chất ginsenoside. Kết quả của nghiên cứu này có ý nghĩa trong chọn giống, bảo tồn, nghiên cứu hóa học, các nghiên cứu lâm sàng và dược lý. Ngoài ra, sự tương quan giữa chỉ thị RAPD và thành phần hóa học chỉ ra rằng việc sử dụng các chỉ thị RAPD là một phương pháp đáng tin cậy và thực tiễn để nhận biết và xác nhận rễ nhân sâm.

N. T. Nga

ẢNH HƯỚNG CỦA THỜI GIAN SINH TRƯỞNG TRÊN CÂY NHÂN SÂM (PANAX GINSENG) ĐẾN SỰ HOẠT ĐỘNG VÀ SINH KHỐI CỦA VI SINH VẬT ĐÂT

 

Xiao C.P và cs.

Zhongguo Zhong Yao Za Zhi, 2014 Dec;39 (24):4740-7

Với phương pháp lấy mẫu đồng ruộng và canh tác trong phòng thí nghiệm, động thái hoạt động của hệ vi sinh vật vùng rễ cây nhân sâm và sinh khối của chúng đã được nghiên cứu trong 3 năm canh tác nhằm đưa ra một cơ sở lý thuyết minh họa cho những trở ngại đối với việc trồng nhân sâm liên tục nhiều năm. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hoạt động của hệ vi sinh vật đất vùng rễ nhân sâm và sự tích lũy sinh khối vi sinh vật bị ức chế bởi thời gian sinh trưởng của cây. Sự hô hấp, sự phân hủy xen-lu-lo và nitrate hóa của hệ vi sinh vật đất vùng rễ nhân sâm đã bị hạn chế đáng kể (P <0,05), trái ngược với vùng không canh tác nhân sâm (R0). Và sự ức chế tăng dần cùng với số năm canh tác. Sự hoạt động của hệ vi sinh vật đất năm thứ 3 (R3) là thấp nhất, các chỉ số hô hấp, phân hủy xen-lu-lo, amôn hóa, và nitrate hóa trong đất cũng thấp hơn so với đất không canh tác nhân sâm (R0), tương ứng là 56,31%, 86,71% và 90,53%. Sự amôn hóa tại vùng rễ nhân sâm của hệ vi sinh vật tăng đáng kể so với R0. Điều này được cải thiện trong giai đoạn đầu của quá trình sinh trưởng cây nhân sâm và giảm dần trong các năm canh tác tiếp theo. Chất hữu cơ trong đất trồng nhân sâm năm thứ nhất, thứ hai và thứ ba thấp hơn so với đối chứng, tương ứng là 32,43%, 80,54% và 66,64%. Những kết quả phân tích tổng hợp đã chỉ ra những yếu tố hàng đầu cho những trở ngại của việc canh tác nhân sâm liên tục nhiều năm là sự thay đổi các chủng vi sinh vật đất, số lượng và sự hoạt động của chúng cũng như cân bằng hệ sinh thái vi sinh vật vùng rễ, mà nguyên nhân gây ra bởi sự tích lũy các chất được tiết ra từ rễ cây nhân sâm.

D.T.P.Hau

KHẢ NĂNG KHÁNG PHYTOPHTHORA CACTORUM CỦA PANAX GINSENG TỪ BACILLUS AMYLOLIQUEFACIENS HK34 TỰ NHIÊN

 

Lee BD và cs.

J Ginseng Res , 2015 Jul, 39(3):213-20

Nhân sâm Hàn Quốc (Panax ginseng Meyer) là một loại thảo dược lâu năm dễ mắc nhiều bệnh ở vùng rễ trong đó Phytophthora cactorum được biết đến là một trong những tác nhân gây bệnh nguy hiểm nhất. Phytophthora cactorum là nguyên nhân gây bệnh lụi lá và thối rễ. Mặc dù thuốc hóa học có khả năng kiểm soát bệnh, tuy nhiên gần đây sự quan tâm nhiều hơn đã chuyển sang các biện pháp thân thiện, chi phí hiệu quả trong đó có các phương pháp sinh học như sử dụng vi khuẩn nốt sần (PGPR) để kiểm soát bệnh.

Chủng Bacillus amyloliquefaciens HK34 tự nhiên được phân lập từ rễ cây nhân sâm hoang dại và được đánh giá là một tác nhân sinh học để kiểm soát bệnh trên cây nhân sâm. Lá của các cây nhân sâm xử lý với HK34 được sử dụng để phân tích khả năng kháng bệnh (ISR) đối với Phytophthora cactorum.

Kết quả đã chỉ ra có tổng cộng 78 chủng vi khuẩn vùng rễ tự nhiên được phân lập từ P. ginseng. Một trong những vi khuẩn vùng gốc được phân lập là Bacillus amyloliquefaciens HK34, chủng này có khả năng kháng lại Phytophthora cactorum, có thể xử lý bằng cách tưới thẳng vào đất một lần duy nhất (kiểm soát bệnh 99,1%) hoặc phun 2 lần giai đoạn đầu phát triển (kiểm soát bệnh 83,9%). Kết quả tương tự cũng được quan sát trên các mẫu lá cây trên đồng ruộng với khả năng kiểm soát bệnh là 85,6%. Sự tăng lên của các gen PgPR10, PgPR5 và PgCAT có khả năng kháng lại P. cactorum đã được phát hiện trong lá cây có xử lý với HK34.

Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng HK34 có tiềm năng được sử dụng như một tác nhân sinh học giúp cây nhân sâm kháng lại bệnh lụi lá và thối rễ do P. cactorum gây ra.

D.T.P.Hau

SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM NÔNG HỌC CỦA CÂY TAM THẤT (PANAX NOTOGINSENG) GIỮA CÁC VÙNG TRỒNG TRUYỀN THỐNG VÀ VÙNG TRỒNG MỚI

 

Zheng DM và cs.

Zhongguo Zhong Yao Za Zhi., 2014 Feb, Vol 39, (4):558-65

Đặc điểm nông học và năng suất dược liệu tam thất đã được nghiên cứu nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc giới thiệu giống và vùng sản xuất nguyên liệu.

Mẫu tam thất được thu thập vào thời điểm thu hoạch và đánh giá các đặc điểm nông học bao gồm số lá, số đốt và số rễ v.v. của cây tam thất thương phẩm. Các đặc điểm của khu vực trồng như kinh độ, vĩ độ, độ cao, loại đất, địa hình của khu vực canh tác cũng được phân tích.

Vùng trồng của cây tam thất (P. notogiseng) được mở rộng từ khu vực truyền thống như Wenshang đến các khu vực mới như Hồng Hà, Côn Minh, Phúc Tĩnh ở quy mô lớn. So sánh với các vùng trồng truyền thống, các vùng trồng mới thường là các vùng có đất đỏ, độ dốc trung bình hay thấp, có độ cao cao hơn rõ rệt, tập trung từ 1,800 – 2,130 m. Các đặc điểm nông học của cây ở các vùng trồng mới như chiều cao cây, đường kính thân, sinh khối dưới mặt đất và trên mặt đất vượt trội so với các vùng trồng trước đây. Hơn nữa, trọng lượng rễ, trọng lượng rễ cái, chiều dài rễ cái và các chỉ số nông học khác đều cao hơn 20%. So sánh giữa các khu vực trồng khác nhau cho thấy tam thất trồng ở Thị trấn Ngưu Nhai huyện Thạch Bình, Hồng Hà; Thị trấn Khuê Sơn, Thạch Lâm, Côn Minh; Thị trấn Quan Đình, huyện Kiến Thủy, Hồng Hà v.v. có đặc tính nông học tốt hơn, cây cao và chắc khỏe, rễ cái lớn và số lượng rễ nhiều hơn hẳn. Ngược lại, tam thất trồng ở vùng Thị trấn Tiêu Thiệu, huyện Quan Độ, Côn Minh lại mảnh và nhỏ. Kết quả phân tích cụm đã chỉ ra rằng các vùng trồng tam thất bao gồm cả vùng trồng mới và cũ được phân thành ba nhóm, đó là vùng cho năng suất cao tập trung ở 3 điểm trồng mới là Thị trấn Ngưu Nhai huyện Thạch Bình, Hồng Hà; Thị trấn Khuê Sơn, Thạch Lâm, Côn Minh, Thị trấn Quan Đình, huyện Kiến Thủy, Hồng Hà và một vùng trồng cũ là Thị trấn Giang Ná, huyện Nghiên Sơn, Văn Sơn. Phân tích tương quan chỉ ra rằng kích thước và trọng lượng của rễ cái cũng như trọng lượng nụ hoa tỷ lệ thuận với chiều cao cây, đường kính thân cây, kích thước lá, trọng lượng thân và trọng lượng lá. Phân tích hồi quy chỉ ra rằng đường kính gốc, chiều rộng lá, chiều dài/chiều rộng lá, trọng lượng lá là những yếu tố chính ảnh hưởng đến trọng lượng khô của rễ cái trong khi các chỉ tiêu chính ảnh hưởng trọng lượng khô của nụ hoa chính là chiều cao cây, cuống lá, chiều dài  lá, chiều rộng lá và đặc điểm nông học khác.

Kết quả phân tích và so sánh đặc điểm nông học cho thấy tam thất được trồng ở các vùng mới đã phát triển mạnh hơn so với trồng ở các vùng truyền thống trước đây nhưng ngoài chiều dài của rễ cái, sự khác biệt của các đặc điểm nông học còn lại là không đáng kể. Điều này chứng minh rằng các vùng đất phía tây và phía bắc của vùng trồng truyền thống, nơi có đất đỏ nằm ở sườn núi có độ dốc trung bình hay thấp với độ cao nằm giữa 1,800-2,130 m là phù hợp với việc trồng cây Tam thất. Thị trấn Ngưu Nhai huyện Thạch Bình, Hồng Hà … có thể được phát triển thành những vùng trồng tam thất hàng hóa trọng điểm.

T.T. Liên

SỬ DỤNG TỶ LỆ KALI CLORUA VÀ KALI SULFAT KHÁC NHAU TRONG QUY TRÌNH TRỒNG CÂY TAM THẤT

 

Zheng DM. và cs.

 Zhongguo Zhong Yao Za Zhi., 2014 Feb, Vol39 (4):588-93

Ảnh hưởng của tỷ lệ KCl và K2SO4 khác nhau đến năng suất và chất lượng cây tam thất đã được nghiên cứu nhằm tìm hiểu phản ứng của cây đối với chloridion và đưa ra những khuyến cáo hợp lý trong việc bón phân. Kết quả cho thấy phân bón K đã cải thiện đáng kể sự tăng trưởng của cây tam thất và đã làm tăng hàm lượng N, P, K và sinh khối trên một cây hay trên một chậu. Trong các công thức thí nghiệm về kali, K2SO4 có ảnh hưởng tốt hơn đến sự gia tăng chiều dài cuống lá, kích thước lá, chiều dài thân rễ, chiều dài rễ, hàm lượng và khả năng tích lũy Ginsenoside Rg1 so với KCl. KCl lại có tác động tốt hơn so với K2SO4 trong việc làm tăng chiều cao cây, đường kính rễ, sinh khối chồi, rễ và hàm lượng Ginsenoside Rb1 và Rd. Không có sự khác biệt đáng kể về các đặc tính sinh học, sinh khối và hàm lượng N, P, K giữa các công thức bón KCl, K2SO4 và tổ hợp giữa KCl và K2SO4. Tuy nhiên, hàm lượng saponin ở các công thức bón tổ hợp phân KCl và K2SO4 là cao hơn đáng kể so với các công thức bón KCl hay K2SO4 đơn lẻ. Phân bón kali làm tăng đáng kể năng suất và hàm lượng saponin. Cây tam thất không mẫn cảm với chloridion. KCl làm tăng năng suất và hàm lượng saponin của cây tam thất giống như K2SO4, song bón kết hợp cả hai loại tỏ ra ưu thế hơn so với bón đơn lẻ. Do vậy, nên khuyến cáo sử dụng KCl trong sản xuất để làm giảm chi phí phân bón kali.

V.H.Sâm

NGHIÊN CỨU QUY LUẬT THAY ĐỔI HÀM LƯỢNG N, P VÀ K TRONG ĐẤT TRỒNG CÂY TAM THẤT (PANAX NOTOGINSENG) VỚI KHOẢNG CÁCH GIỮA CÁC LẦN CANH TÁC KHÁC NHAU

Liu DH và cs.

Zhongguo Zhong Yao Za Zhi., 2014 Feb,Vol.39(4):572-9

Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định được ảnh hưởng của khoảng cách về thời gian giữa các vụ trồng  đến hàm lượng các nguyên tố đa lượng trong đất trồng tam thất.

Sự thay đổi linh hoạt của hàm lượng N, P, K tổng số với N, P, K dễ tiêu trong đất từ Mabai, Matang, Gumu và Panlong được xác định theo các mô hình trồng khác nhau (đất mới, đất bỏ hoang 5 năm và đất canh tác liên tục).

Kết quả cho thấy thứ  tự các hàm lượng N, P tổng số và N, P dễ tiêu trong đất lần lượt là: đất bỏ hoang 5 năm > đất canh tác liên tục > đất mới. Không có sự thay đổi đáng kể nào về N tổng số của đất trong ¼ thời gian đầu theo dõi, nhưng 3/4 thời gian tiếp theo cho thấy hình  đường cong chữ V ngược và giá trị đỉnh xảy ra ở tháng 4 năm 2010. Hàm lượng K tổng số trong đất thay đổi không đáng kể, nhưng hàm lượng K dễ tiêu khác nhau, trong đất mới > đất canh tác liên tục > đất bỏ hoang 5 năm, sự thay đổi trong ¼ thời gian đầu theo dõi cũng tương tự như N hay P dễ tiêu trong đất. Có sự khác nhau về N, P, K tổng số trong đất và N, P, K dễ tiêu ở 4 điểm theo dõi theo các phương thức canh tác với khoảng cách khác nhau giữa các lần canh tác. Có sự tương quan có ý nghĩa giữa hàm lượng P tổng số và P dễ tiêu theo cả 3 phương thức trồng này, còn N và K thì không. Tỷ lệ N-P-K trong đất mới, đất bỏ hoang 5 năm và đất canh tác liên tục lần lượt là 1:0,4:2,4; 1:0,4:1,4; 1:0,4: 2,0

Mô hình canh tác với khoảng cách về thời gian giữa các lần canh tác khác nhau tác động đến sự tích lũy của P nhưng lại gây giảm K. Tỷ lệ mất cân bằng của N, P và K là một trong những tác động gây ra bởi việc canh tác liên tục. Tăng cường nghiên cứu về tỷ lệ tối ưu của N, P, K trong đất và hạn chế các ảnh hưởng xấu của luân canh liên tục nhiều năm bằng cách điều chỉnh tỷ lệ phân bón tổng hợp là định hướng nghiên cứu trong tương lai.

V.H.Sâm

ĐÁNH GIÁ TUỔI CÂY NHÂN SÂM (PANAX GINSENG) DỰA VÀO CHIỀU DÀI CỦA TELOMERE VÀ HOẠT TÍNH CỦA ENZYM TELOMERASE

 

Liang J. và cs.

Sci Rep, 2015 Jan, 23,5:7985

Trong y học cổ truyền phương Đông, nhân sâm, rễ của cây sâm (Panax ginseng, họ Araliaceae), đã được sử dụng làm chất kích thích và làm thuốc bổ  hơn 7.000 năm qua. Cây sâm càng lâu năm thì giá trị làm thuốc càng lớn, song tuổi của cây sâm mới chỉ được tính một cách tương đối theo năm trồng cây. Telomere dần dần bị rút ngắn sau mỗi lần phân chia tế bào cho đến khi chúng đạt đến một độ dài nhất định, mà tại đó các tế bào điểm tạo nên sự lão hóa. Tuy nhiên, ở một số tế bào, enzym entelomerase sẽ duy trì chiều dài telomere. Trong nghiên cứu này, để xác định xem chiều dài telomere  có phản ánh tuổi cây sâm không và loại mô cây nào là tốt nhất cho nghiên cứu này, chúng tôi đã nghiên cứu hoạt tính của enzym telomerase  có trong các rễ chính, lá, thân, rễ phụ và hạt của cây nhân sâm đã biết tuổi. Chiều dài telomere trong rễ chính (khoảng 1 cm dưới thân rễ)  được xác định là chỉ thị tốt nhất để xác định tuổi của cây.  Độ dài đoạn tới hạn (TRF) Telomeric chính là chiều dài của telomere được xác định bằng phương pháp lai Southern trên các mẫu rễ chính của các cây sâm có độ tuổi khác nhau. Độ dài Telomere đã được chứng minh là có sự tương quan với tuổi của cây và một công thức toán học đơn giản đã được tạo để mô tả mối quan hệ giữa độ dài telomere và tuổi cây nhân sâm.

V. H. Sâm

ỨNG DỤNG SỰ CHE PHỦ KÉP CHO CÂY GIỐNG TAM THẤT  (PANAX NOTOGINSENG)

Ou XH và cs.

 Zhongguo Zhong Yao Za Zhi.,2014 Feb, Vol 39 (4):566-71

 

Để cải thiện việc tưới cho cây giống tam thất (Panax notoginseng), các cách phủ gốc khác nhau đã được thực hiện để nghiên cứu ảnh hưởng của sự che phủ kép.

Ruộng thí nghiệm được sử dụng để nghiên cứu độ ẩm của đất, nhiệt độ đất và mật độ khối của các cách phủ khác nhau cùng với tỷ lệ nảy mầm của hạt và khả năng phát triển cây giống cũng đã được nghiên cứu.

So với kiểu phủ một lớp truyền thống bằng lá cây thông hoặc rơm, sử dụng phủ kép là kết hợp film nhựa với lá cây thông hoặc rơm có thể giảm 2/3 lượng nước tưới ở thời kỳ đầu của cây giống. Sau khi hạt nẩy mầm, áp dụng phủ kép vào toàn bộ thời gian cây giống thì 40 ngày sau không cần tưới vẫn giữ được nhiệt độ ổn định 9,0 - 16,6oC và độ ẩm là 30% cho đất trồng. Độ ẩm đất và nhiệt độ ổn định tạo điều kiện thuận lợi để chống lại thời tiết lạnh cuối xuân và kích thích cây nảy mầm sớm hơn, đồng thời giữ được tỷ lệ nảy mầm đều đặn và chất lượng cây giống tốt. Ngược lại, phủ đơn sử dụng lá cây thông hoặc rơm rạ làm cho khả năng duy trì độ ẩm và nhiệt độ đất kém nên cần phải tưới cho cây 12 ngày một lần, ngoài ra nó còn làm giảm thời gian nảy mầm và thời gian nở hoa tương ứng là 14 ngày và 24-26 ngày, tỷ lệ nảy mầm khoảng 11,3% - 8,7%. Tuy nhiên, phủ đơn bằng lá thông có tác dụng tốt hơn phủ rơm. Mặc dù có các hiệu ứng tốt hơn như là duy trì được nhiệt độ và độ ẩm cũng như nẩy mầm sớm hơn và tỷ lệ nẩy mầm cao hơn so với cách phủ bằng film nhựa đơn, song một vài nhược điểm của phương pháp cũng đã được quan sát thấy, chẳng hạn như nhiệt độ đất hàng ngày thay đổi rất nhiều, đất trồng cây giống dễ bị cứng, rêu và cỏ dại mọc nhiều dẫn đến khó khăn trong việc quản lý sau này.

Với mục tiêu tiết kiệm nước và công tưới cũng như đạt được tỷ lệ nảy mầm và chất lượng cây giống cao hơn, phủ kép sử dụng film nhựa kết hợp lá thông ở gian đoạn cây non và phủ đơn không dùng film nhựa ở giai đoạn sau nên được áp dụng vào trồng trọt cây tam thất.

V.H.Sâm

ẢNH HƯỞNG CỦA NẤM FUSARIUM SOLANI  VÀ F. OXYSPORUM LÊN CƠ CHẾ TỔNG HỢP GINSENOSIDES Ở RỄ CÂY SÂM MỸ

Jiao X và cs.

Molecules, 2015, Vol 20(6):10535-52

Sâm Mỹ (Panax quinquefolius L.) là một loại thảo mộc có giá trị cao được sử dụng rộng rãi làm thuốc chữa bệnh. Hợp chất có dược tính quan trọng của nó là ginsenosides, đó là hợp chất thứ cấp trong rễ sâm Mỹ. Hàm lượng ginsenoside trong rễ có thể bị biến đổi do bị nhiễm nấm, nhưng chưa có nghiên cứu nào giải thích về việc mô rễ cụ thể nào bị tác động và liệu sự biến đổi đó có mang tính hệ thống hay không. Trong nghiên cứu này, rễ nhân sâm Mỹ bị gây nhiễm 2 mầm nấm bệnh (Fusarium solani hoặc F. oxysporum), sau đó các mức của sáu ginsenosides (Rb1, Rb2, Rc, Rd, Re, và Rg1) được đo ở vòng phloem và xylem tại vị trí của các mô bệnh đã biến màu, tiếp giáp với các mô khỏe lân cận. Kết quả cho thấy  rằng sự sinh trưởng của nấm Fusarium spp. đã bị giới hạn hoàn toàn đến phloem và hàm lượng ginsenoside chỉ bị thay đổi ở vùng phloem tương ứng bị nhiễm nấm này. Nồng độ Rg1, Rd, và Rc thay đổi đáng kể trong các mô libe bị nhiễm nấm F. solani, còn khi bị nhiễm nấm F.oxysporum thì chỉ có Rg1 và Rd bị biến đổi lớn. Tuy nhiên, không có sự thay đổi bất kỳ ginsenoside nào xảy ra ở xylem cũng như mô libe giáp với điểm nhiễm nấm. Ngoài ra, khi hai loài Fusarium này được nuôi trên môi trường Czapek có bổ sung ginsenoside, phần lớn các ginsenosides đã bị suy giảm. Do đó, khi bị nhiễm nấm Fusarium spp., hàm lượng ginsenoside trong cây sâm Mỹ có thể bị suy giảm nhiều.

V. H.Sâm

XÁC ĐỊNH CHỦNG VI KHUẨN GE15 VÀ HIỆU QUẢ PHÒNG TRỪ BỆNH TRÊN CÂY NHÂN SÂM

Liu M và cs.

Zhongguo Zhong Yao Za Zhi., 2014 Dec, Vol 39(24):4754-8

Dựa trên các kết quả nghiên cứu trước đây về chuỗi tương đồng trình tự rDNA 16S và kết quả của các chỉ số sinh hóa-lý và đặc điểm hình thái học cho nghiên cứu hiện tại, chủng vi khuẩn ge15 phân lập từ rễ cây nhân sâm đã được xác định là Stenotrophomonas rhizophila. Kết quả lây bệnh ngược lại cho thấy, chủng ge15 ức chế đáng kể sự tăng trưởng của Alternaria panax, Phytophthora cactorum, và Cylindrocapon destructans, và chiều rộng của vùng ức chế tương ứng với 3 loại trên là 13,3; 24,0; 12,0 mm. Kết quả nghiên cứu tiếp theo cho thấy tỷ lệ xuất hiện bệnh và tỷ lệ cây con sống sót khi xử lý ge15 cao hơn đáng kể so với đối chứng, cũng tương tự như xử lý bằng thuốc trừ sâu carbendazol. Như vậy, chủng ge15 có khả năng được ứng dụng để phòng trừ một số bệnh trên cây nhân sâm.

V. H. Sâm

ĐÁNH GIÁ HÀM LƯỢNG GINSENOSIDE THEO CÁC TUỔI SÂM NGỌC LINH VÀ TÁC DỤNG CỦA CHÚNG LÊN TẾ BÀO HELA

Hoang Tung Vo và cs.

African Journal of Traditional, Complementary and Alternative Medicines, 2015, Vol 12(4):.79-83.

Mục tiêu của nghiên cứu là để điều tra các hợp chất chính của ginsenosides trong sâm Ngọc Linh theo các giai đoạn phát triển của nó và khả năng ức chế sinh trưởng của chúng lên các tế bào HeLa.

Củ sâm Ngọc Linh ở các tuổi khác nhau được phân tích bằng HPLC/MS. Khả năng ức chế sinh trưởng của tế bào Hela của sâm Ngọc Linh được khảo sát bằng phương pháp MTT.

Kết quả cho thấy hàm lượng của ba hợp chất chính trong sâm Việt Nam là Rb1, Rg1 và majonoside R2 tăng lên theo tuổi cây. Tuy nhiên, hàm lượng các hợp chất khác như Rc, Re, Rd và Rg3 không có sự thay đổi theo tuổi cây. Hợp chất chính majonoside R2 được tích lũy mạnh nhất khi cây được 5 tuổi. Theo số liệu nghiên cứu thì khả năng ức chế hoạt động của tế bào HeLa liên quan trực tiếp đến tuổi cây. Củ của cây sâm Ngọc Linh 11 tuổi có tác dụng lớn nhất. Tác dụng này có thể liên quan đến hàm lượng của ginsenosides hoặc majonoside R2 ở sâm Ngọc Linh.

Hàm lượng của ginsenoside trong rễ của sâm Ngọc Linh có liên quan trực tiếp đến tuổi cây. Nhìn chung, do hàm lượng của các ginsenoside trong rễ sâm trưởng thành cao hơn nên củ sâm Ngọc Linh trưởng thành có thể được sử dụng như một loại thuốc ức chế sinh trưởng của tế bào HeLa hiệu quả.

N.T.Bình

CÔNG BỐ ĐẦU TIÊN VỀ BỆNH THỐI RỄ DO NẤM FUSARIUM REDOLENS GÂY RA TRÊN CÂY NHÂN SÂM (PANAX GINSENG) TẠI TỈNH CÁT LÂM-TRUNG QUỐC

Y. M. Guan và cs.

The American Phytopathological Society, June 2014, Vl 98, No 6: 844.2 - 844.2

Nhân sâm (Panax ginseng C.A Meyer) là một tài sản quý trong y học cổ truyền  của Trung Quốc và đã được sử dụng rộng rãi trong thực phẩm, sản phẩm chăm sóc sức khỏe và các loại thuốc ở Trung Quốc trong hơn 4.000 năm. Tỉnh Cát Lâm là một khu vực sản xuất nhân sâm lớn nhất thế giới. Bệnh thối rễ nhân sâm do nấm Fusarium spp. là bệnh chính trên cây nhân sâm với tỷ lệ bệnh hơn 25%. Rễ củ nhân sâm khi bị nhiễm bệnh không thể sử dụng được nên mang lại thiệt hại rất lớn về kinh tế, bên cạnh đó chưa có các tác nhân gây bệnh được xác định rõ ràng. Triệu chứng bệnh ban đầu là hiện tượng các lá trên mặt đất của cây nhân sâm bị nhiễm bệnh chuyển sang màu đỏ và sau đó héo hoặc chết cây. Tất cả các bộ phận của rễ bao gồm thân rễ, củ, rễ con có thể bị nhiễm bệnh. Cây bị bệnh mạch dẫn có màu nâu ở một vị trí trên thân, và sau đó lan dần ra toàn bộ mạch dẫn của cây, gây thối rễ. Rễ củ của cây bị bệnh được thu thập vào tháng sáu năm 2012 ở cây sâm 4 tuổi (Damaya cv.) Từ  hạt Tĩnh Vũ, thành phố Jiaohe và tỉnh Cát Lâm, đã thu được sáu mẫu nấm, được phân lập bằng cách cắt rễ thành các mảnh 5mm3, khử trùng ở NaOCl 3% trong vòng 3 phút, và phân lập trên môi trường PDA một nửa độ mạnh. Tất cả các mẫu đã được làm thuần bằng cấy từ đơn bào tử. Tản nấm phát triển trắng như bông trên môi trường PDA, bào tử nhỏ chiếm đa số, hình bầu dục hoặc hình quả thận, chiều dài dao động 5,97-12,01 mm. Bào tử lớn hình thành rất ít, có hình dạng từ hình thoi đến hình nón, thường là 3-5 vách ngăn, chiều dài dao động 13,99-26,50 mm, mỏng, với một tế bào đỉnh hơi cong và một tế bào đáy hình bàn chân. Bào tử hậu được hình thành theo từng chuỗi hoặc từng cặp  trên basidixed hay ở giữa sợi nấm. Kết quả giám định sơ bộ dựa trên đặc điểm hình thái phù hợp với mô tả của nấm Fusarium redolens (2). Tất cả các chủng Fusarium spp. đã được xác định một cách chính xác dựa trên phương pháp phân tích trình tự gen rDNA (ITS) và EF1-α. Trình tự ITS (số GenBank  KF499035) cho kết quả là 100% nucleotides bắt cặp phù hợp với F. redolens (X94169) trong hệ thống dữ liệu của NCBI và gen EF1-α (KF499036) có 100% nucleotides tương tự với F. redolens (vd. AF324319) trong hệ thống dữ liệu Fusarium-ID (1). Tất cả các mẫu phân lập của F. redolens  đã được lây bệnh nhân tạo trên rễ sâm khỏe trong nhà kính bằng cả phương pháp lây trực tiếp in vitro qua rễ cây khỏe và lây qua cây sạch bệnh trồng trong nhà lưới. Mỗi thí nghiệm lây bệnh được lặp lại ba lần. Bệnh thối rễ được đánh giá sau 21 ngày sau khi trồng và tất cả các mẫu nấm đều gây thối rễ trên cây được lây bệnh, rễ củ và rễ tơ bị thối nâu đen, cây bị héo. Không một triệu chứng thối rễ nào quan sát thấy trên các cây đối chứng. Các tác nhân gây thối rễ trong thí nghiệm cũng đã được tái phân lập thành công. Loài  F. redolens đã được xác định trước đó là loài  F. oxysporum, nhưng các nghiên cứu phân tử gần đây đã chỉ ra rằng chúng là những loài ở xa trong phân tích câp phả hệ của loài (3). Theo hiểu biết của chúng tôi, đây là công bố đầu tiên về F. redolens gây bệnh thối rễ trên nhân sâm ở Trung Quốc.

C. My

NẤM VÙNG RỄ CỦA PANAX NOTOGINSENG: SỰ ĐA DẠNG VÀ SỰ ĐỐI KHÁNG VỚI TÁC NHÂN GÂY BỆNH CHÍNH CỦA CÂY

 

Cui-Ping Miao và cs.

Journal of Gíneng Research, Available online 19 June 2015

Nấm vùng rễ đóng một vai trò thiết yếu trong hệ sinh thái thực vật và đất, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và sức sống cây trồng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá sự đa dạng của nấm trong đất vùng rễ của  cây tam thất (Panax notoginseng) 2 năm tuổi khỏe mạnh được trồng  tại Văn Sơn, Trung Quốc.

Các phương pháp sinh học phân tử kết hợp hình thái học đã được sử dụng để phân tích tính đa dạng của nấm vùng rễ cây. Các tác nhân gây bệnh cho P. notoginseng cũng được xác định bằng cách cấy dung dịch đất pha loãng lên môi trường nhân tạo.

Tổng cộng có 16.130 cặp gen đã được giải trình tự chuỗi ở vùng nhân ribosom ITS 2 và được nhóm thành 860 đơn vị phân loại với 97% tương đồng. Các đơn vị phân loại được xếp chủ yếu ở 5 lớp và 79 họ. Lớp Zygomycota (46,2%) và Ascomycota (37,8%) chiếm tỷ lệ cao nhất; Chi Mortierella và nhóm Mortierellales chưa phân loại chiếm tỷ lệ lớn (44,9%). Sự tương đối phong phú của chi Fusarium và Phoma chiếm tỷ lệ rất cao, lần lượt là 12,9% và 5,5%. Kết quả phân tích đặc điểm hình thái và đa dạng di truyền cho thấy 113 mẫu nấm đã được phân lập từ đất vùng rễ của cây tam thất thuộc 5 lớp, 8 bộ, 26 họ và 43 chi. Fusarium là chi đã  phân lập được nhiều loài nhất với 6 loài (24 chủng, chiếm 21,2%). Sự phong phú của chi Phoma cũng khá cao (8,0%). Mười ba chủng phân lập được có tác dụng đối kháng chống lại ít nhất một nấm gây bệnh khi tiến hành kiểm tra.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng nấm vùng đất quanh rễ cây tam thất 2 năm tuổi rất đa dạng bao gồm cả những nấm có khả năng gây bệnh cho cây và những nấm đối kháng. Việc phân lập các nấm đối kháng có vai trò quan trọng trong việc xây dựng các biện pháp phòng trừ sinh học các tác nhân gây bệnh.

N.V.Hung

BÓN PHÂN TỐI ƯU CHO TAM THẤT (PANAX NOTOGINSENG) VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐỘ ẨM ĐẤT ĐẾN BỆNH THỐI RỄ VÀ HÀM LƯỢNG SAPONIN

Pengguo Xia và cs.

Jounal of Ginseng Research,

http://www.ginsengres.com30 tháng 4 năm 2015

Thực trạng canh tác tam thất trên đồng ruộng còn nhiều bất cập trong đó có việc bón phân không khoa học và bón quá nhiều phân làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh thối rễ.

Cả hai phương pháp thử nghiệm bón phân và kiểm tra trực tiếp đã được thực hiện tại huyện Thạch Lâm, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, cho NPK (đạm, lân và kali) và phân khoáng. Các số liệu được sử dụng để xây dựng các mô hình phương trình toán học hồi quy một, hai, và ba nhân tố. Ảnh hưởng của thiếu phân bón làm suy giảm năng suất cũng đã được phân tích để xác nhận kết quả dự đoán của các mô hình này. Một thí nghiệm trồng trong chậu vại đã được thực hiện nhằm đánh giá tỷ lệ mắc bệnh thối rễ và xác định mức phân bón cho năng suất rễ và hàm lượng saponins cao nhất.

Chế độ bón NPK tốt nhất tương ứng là 0 kg/667 m2, 17,01 kg/667 m2, và 56,87 kg/667 m2 có thể cho năng suất rễ cao nhất là 1.861,90 g (rễ khô của 100 cây). Đối với phân khoáng, sử dụng canxi và magiê có ảnh hưởng đáng kể và tích cực đến năng suất rễ và hàm lượng của 4 loại saponin tương ứng. Mức độ nghiêm trọng của bệnh thối rễ tăng lên cùng với sự gia tăng độ ẩm của đất. Giới hạn tốt nhất của độ ẩm đất dao động từ 0,56 FC (sức chứa nước trên đồng ruộng) đến 0,59 FC, cho năng suất rễ và hàm lượng saponin cao nhất cũng như tỷ lệ mắc bệnh thối gốc giảm đi.

Những kết quả này cho thấy lượng nitơ được sử dụng trên đồng ruộng là quá dư thừa trong khi kali lại thiếu. Độ ẩm đất cao là một yếu tố làm tăng mức độ nghiêm trọng của bệnh thối rễ.

Đ.V. Núi

HƯỚNG MỚI TRONG TẠO GEN KHÁNG CỦA TAM THẤT (PANAX NOTOGINSENG) VÀ TAM THẤT HOANG (PANAX STIPULEANATUS)

Li RuiBo và cs.

Genomics and Applied Biology, 2014, 33, 3: 624-632

Tam thất là dược liệu truyền thống nổi tiếng ở Trung Quốc. Thực tế hiện nay dịch bệnh trên cây tam thất đang ngày càng tăng cao và trở thành một yếu tố quan trọng hạn chế sự phát triển bền vững của ngành sản xuất này. Theo quan sát, các đặc tính kháng bệnh của tam thất hoang Panax stipuleanatus tốt hơn so với tam thất Panax notoginseng khi trồng chúng trong cùng một điều kiện sinh thái. Đây sẽ là một trong những vấn đề cần quan tâm để nhân gen kháng bệnh. Một số gen kháng bệnh được phát hiện dựa vào quan hệ ký sinh – ký chủ của tam thất hoang và tam thất đã được nhân nhanh bằng phương pháp PCR cho các đoạn gen mã hóa và phân tích dữ liệu theo phương pháp KEGG của các loài có liên quan. Đây là một phương pháp mới để nhân bản gen của tam thất, cũng là tiền đề cho các nghiên cứu về vấn đề này trên các cây thuốc khác.

L.T.Thu

ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN CHUỒNG Ủ ĐẾN SINH VẬT ĐẤT VÀ TỶ LỆ BỆNH THỐI RỄ CÂY NHÂN SÂM (PANAX GINSENG)

 

Kee-Choon Park

 Applied Soil Ecology (Impact Factor: 2.21). 09/2013; 71:58–64.

Một số loại nấm hoại sinh là tác nhân gây bệnh cho nhân sâm và đầu vào của vật liệu hữu cơ có thể ảnh hưởng đến các tác nhân gây bệnh. Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm hiểu ảnh hưởng của phân chuồng ủ đến nấm gây bệnh truyền qua đất và ảnh hưởng của các sinh vật trong đất đến bệnh thối rễ trên nhân sâm. Nguyên liệu phân chuồng ủ hỗn hợp từ 3 chất thải  của gà, bò, heo, đã được bón với mức 20 Mg ha-1. Chúng tôi so sánh ảnh hưởng của các chân đất khác nhau để trồng sâm. Môt chân đất được chuyển đổi từ  ruộng lúa và mộtt chân đất là nương rẫy. Mặc dù  đã bón  phân chuồng ủ, nhưng sản lượng củ không tăng do cây  mất rễ củ và cây bị rối loạn sinh trưởng do bệnh thối rễ gây ra. Chúng tôi đã phân lập được nấm Cylindrocarpon destructans và nấm Fusarium solani từ rễ cây bị bệnh, đây là hai tác nhân chính gây bệnh trên sâm. Sự tăng trưởng sợi nấm của 2 nấm này tăng trong đất của cả hai điểm thí nghiệm với phân chuồng ủ, nhưng 2 nấm này phát triển mạnh hơn trên chân đất trồng sâm đã chuyển đổi từ lúa sang. Những phát hiện này cho thấy rằng việc áp dụng phân chuồng ủ có thể đẩy nhanh sự phát triển bệnh thối rễ do thúc đẩy các loại nấm gây bệnh phát triển. Hệ vi sinh vật  được ước tính bằng cách phân tích các axit béo phospholipid và phân tích đa chiều cho thấy phản ứng của hệ vi sinh là khác nhau giữa hai điểm thí nghiệm. Vi khuẩn hiếu khí PLFAs đã tăng lên rất nhiều trong thí nghiệm trên chân đất sâm được trồng trên đồi. Điều này cho thấy rằng  ảnh hưởng của phân ủ có thể khác nhau tùy theo từng loại đất. PLFAs nấm đã cho thấy mối tương quan với tuyến trùng ăn nấm nhưng không tương quan với sự phong phú của các loài nhện Collembola và Oribatida. Dường như các tác dụng ức chế của hệ động vật thiên địch với nấm để giữ cân bằng với sự phát triển của nấm ở phân ủ là nhỏ và chỉ giới hạn đối với một số sinh vật. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng sự tăng chất mùn trong đất có thể thúc đẩy sự phát triển  của  nấm C. destructans và F. solani, và phải kiểm soát các loại nấm gây bệnh này khi sử dụng phân ủ.

T.D.Việt

CAO CHIẾT HỒNG SÂM HÀN QUỐC CẢI THIỆN HOẠT ĐỘNG CỦA TINH HOÀN VÀ QUÁ TRÌNH TRƯỞNG THÀNH CỦA TINH TRÙNG Ở CHUỘT CỐNG GIÀ BẰNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÒA PROTEIN OXY HÓA-KHỬ VÀ CƠ CHẾ CHỐNG OXY

Kopalli SR và cs.

Exp Gerontol, 2015 May 14

Sự phá hủy cân bằng giữa các chất oxy hoá và chất chống oxy hoá trong tế bào được xem như là đặc điểm chung phổ biến trong quá trình suy sinh dục nam do lão hóa. Vì vậy, điều hoà các cơ chế chống oxy hoá có thể là một phương pháp lý tưởng trong việc cải thiện rối loạn chức năng tình dục ở nam giới. Trong nghiên cứu này, tác dụng cuả cao chiết nước Hồng sâm Hàn Quốc (KRG) trong thực nghiệm rối loạn chức năng tinh hoàn do lão hóa được tiến hành ở chuột cống già (18 tháng). KRG (liều 200 mg/kg) được cho chuột ăn trong vòng 6 tháng bằng cách trộn vào viên thực phẩm hàng ngày và tiến hành đánh giá các chỉ tiêu về hình thái học, sự sinh tinh, các enzym chống oxy hoá trong tinh hoàn của chuột già. Số liệu cho thấy có sự thay đổi đạt ý nghĩa thống kê trong hình thái tinh hoàn và giảm các thông số liên quan đến sự sinh tinh ở chuột già  (AC) so với những con chuột trẻ (YC). Số lượng tinh trùng, số lượng tế bào mầm, số lượng tế bào Sertoli và chỉ số tế bào Sertoli được phục hồi có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) trong nhóm chuột già (G-AC) được điều trị bằng KRG. Hơn nữa, sự tăng peroxy hoá lipid thể hiện qua hàm lượng malondialdehyd tăng (p < 0,05), sự thay đổi các enzym chống oxy hoá (như superoxid dismutase, glutathion peroxidase, glutathion-S-transferase, glutathion reductase và catalase) và các chất chống oxy hoá bản chất không là enzym (như glutathion dạng khử, acid ascorbic và α-tocopherol) (p < 0,05) ở nhóm chuột già được điều trị bằng KRG đã giảm về mức gần như bình thường giống như nhóm YC. Thêm nữa, các phân tích hệ thống định tính và định lượng sự biểu hiện protein cho thấy sự biểu hiện các protein chọn lọc như protein vận chuyển phosphatidylinositol, protein -9 gắn acid béo, triosephosphate isomerase-1 và aldehyd (aldose) reductase-1 ở chuột già được bảo vệ đạt ý nghĩa thống kê (p < 0,05) ở lô có điều trị KRG. Tóm lại, việc sử dụng dài ngày KRG có khả năng phục hồi tình trạng tinh hoàn hoạt động không hiệu quả do lão hóa ở chuột cống trắng bởi cơ chế điều hòa các protein oxy hóa khử và cơ chế chống oxy hoá.

T.T.T. An

CHIẾT XUẤT, TIÊU CHUẨN HÓA POLYSACCHARID TỪ QUẢ NHÂN SÂM

VÀ TÁC DỤNG ĐIỀU HÒA MIỄN DỊCH TRÊN CHUỘT CỐNG UNG THƯ PHỔI LEWIS

 

Wang Y và cs.

Carbohydr, Polym, 2015 Aug 20, 127:215-21

Trong nghiên cứu này, một polysaccharid (GFP1) với trọng lượng phân tử trung bình là 1,4 x 10(5) Da, được chiết từ quả Nhân sâm. GFP1 là hỗn hợp gồm galactose, glucose, rhamnose và arabinose theo tỷ lệ 6,1:2:0:1.1:3,2 và khung sườn chủ yếu bao gồm liên kết-Galp (1→6), liên kết-Galp (1→3,6) và liên kết-Glcp (1→3,6), được kết thúc bằng đuôi (1→) liên kết Araf hoặc Rhap đính vào vị trí O-3 của liên kết Galp (1→3,6) và liên kết Glcp (1→3,6.) Chúng tôi cũng đánh giá hiệu quả của GFP1 trên đáp ứng miễn dịch chống khối u ở mô hình chuột mang khối ung thư phổi Lewis và tìm hiểu cơ chế. GFP1 có khả năng ức chế điển hình sự phát triển và di căn của khối u phổi in vivo, tăng khối lượng tuyến ức và lách, gia tăng sự tăng sinh tế bào lympho lách gây bởi ConA và LPS, thúc đẩy hoạt động của tế bào NK ở lách và tăng nồng độ interleukin-2 (IL-2) và interferon-γ (IFN-γ) trong huyết thanh, cũng như mật độ CD4(+)/CD8(+) ở chuột mang khối u. Những dữ liệu này chứng tỏ GFP1 có hiệu quả ức chế sự tăng trưởng và di căn của khối u phổi bằng cách hoạt hóa hoạt động của hệ thống miễn dịch và cung cấp bằng chứng về cơ chế của GFP1 trong việc dự phòng và điều trị ung thư phổi.

T.T.T.An

SỰ TIÊU XƯƠNG GIAI ĐOẠN SỚM CỦA ĐẦU XƯƠNG ĐÙI THỎ GÂY BỞI STEROID VÀ SAPOININ TAM THẤT: CƠ CHẾ VÀ TÁC DỤNG BẢO VỆ

 

Qiang H và cs.

Evid Based Complement Alternat Med. 2015;2015:719370. doi: 10.1155/2015/719370. Epub 2015 Mar 16

 

Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm mục đích khảo sát sinh bệnh học của stress oxy hoá trong sự hoại tử mạch máu ở đầu xương đùi (SANFH) gây bởi steroid và tìm ra cơ chế và tác dụng bảo vệ của saponin Tam thất (PNS) tại giai đoạn sớm của SANFH.

Phương pháp: 80 con thỏ NewZealand trưởng thành được chia ngẫu nhiên thành nhóm đối chiếu, nhóm mô hình và nhóm PNS. Trong nhóm mô hình, huyết thanh ngựa được tiêm vào tĩnh mạch tai thỏ, sau đó methylprednisolon được tiêm vào cơ mông. Trong nhóm PNS, PNS được uống trong 14 ngày liên tiếp trước liệu pháp methylprednisolon. Ở các thời điểm khác nhau, huyết thanh và đầu xương đùi được lấy mẫu cho định lượng T-AOC, SOD, GSH-Px, ·OH và MDA. Hai tuần sau khi điều trị steroid tất cả các đầu xương đùi được chụp MRI và nhuộm HE.

Kết quả: Triệu chứng hoại tử xương đầu điển hình được thấy ở nhóm mô hình. Kết quả nghiên cứu cho thấy PNS ngăn chặn đạt ý nghĩa thống kê việc giảm nồng độ T-AOC, cải thiện hoạt tính SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của gốc tự do ·OH và làm tăng nồng độ MDA. Bên cạnh đó, PNS cải thiện MRI và các thay đổi bệnh lý đầu xương đùi, làm giảm rõ rệt tần suất hoại tử xương.

Kết luận: Stress oxy hoá đóng vai trò tích cực trong bệnh sinh của SANFH trong đó gốc tự do oxy hoạt động là nguyên nhân trực tiếp. PNS với tác dụng chống oxy hoá có thể bảo vệ thỏ chống lại hoại tử đầu xương đùi gây ra bởi steroid.

XÁC ĐỊNH 10 ĐỘC CHẤT MYCOTOXIN TRONG PANAX NOTOGINGENG BẰNG SẮC KÝ LỎNG HIỆU NĂNG CAO HAI LẦN KHỐI PHỔ

 

Chen Y và cs.

Acta Pharmaceutica Sinica, 2015, 50(1), 81-5

 

Để đảm bảo an toàn và chất lượng Panax notoginseng, một phương pháp xác định đồng thời 10 mycotoxin trong Panax notoginseng được phát triển sử dụng sắc ký lỏng hiệu năng cao hai lần khối phổ (UPLC-MS/MS). Mẫu được chiết bằng acetonitril và được tinh chế bằng cột rửa đa chức năng HLB. Việc tách được thực hiện trên cột Phenomenex Kinetex XB-C18, rửa giải theo gradient, sử dụng pha động là methanol và 5 mmol·L(-1) ammonium acetat. Các hợp chất mục tiêu được phát hiện ở chế độ MRM bằng khối phổ với nguồn ion hóa tia điện (electrospray ionization – ESI) được mở trong cả 2 kiểu quét ion dương và ion âm. Quan hệ tuyến tính của 10 mycotoxin tốt trong các khoảng tuyến tính tương ứng. Các hệ số tương quan dao động từ 0,9981 đến 1,0000. Các giới hạn định lượng (LOQ) của 10 mycotoxin nằm giữa 0,15 và  8,6 μg·kg(-1). Sự hồi phục trung bình dao động từ 73,8% đến 107,0% với độ lệch chuẩn tương đối (RSD) trong khoảng 0,10%-10,9%. Kết quả cho thấy phương pháp được đề xuất có độ nhạy, chính xác và phù hợp với định lượng các độc tố mycotoxin trong Panax notoginseng.

T. Đ. Phương

MỘT HỢP CHẤT TRITERPENOID TỪ THÂN VÀ LÁ SÂM MỸ (AMERICAN GINSENG)

 

Han L và cs.

Natural Product Research, 2015: 1-7

Một hợp chất mới có cấu trúc dammaran triterpenoid được phân lập từ thân và lá nhân sâm Mỹ (American ginseng). Cấu trúc của sapogenin mới này được làm sáng tỏ bằng cách kết hợp phân tích phổ NMR và phổ khối phân giải cao (HR-ESI-MS) là dammar-20S, 25S-epoxy-3β, 12β, 26-triol (1). Hợp chất 1 cho thấy tác dụng gây độc in vitro trên các dòng tế bào SM7721 và Hela ở người.

T. Đ. Phương

MỘT SAPONIN 12, 23-EPOXY DAMMARANE MỚI TỪ PANAX NOTOGINSENG

 

Yuan C và cs.

Chinese Journal of Natural Medicines , 2015, 13(4): 303-6

Các nghiên cứu hiện nay đã khảo sát thành phần hóa học của rễ và thân rễ Panax notoginseng. Các hợp chất được phân lập bằng các phương pháp sắc ký cột khác nhau và các cấu trúc của nó đã được làm sáng tỏ bằng các phân tích mở rộng cuả dữ liệu quang phổ và bằng chứng hóa học. Một hợp chất mới có cấu trúc 12, 23-epoxy dammaran saponin được gọi là epoxynotoginsenoside A (1) cùng với bốn hợp chất đã biết (2-5) được phân lập và mô tả đặc điểm.

T. Đ. Phương

CÁC GINSENOSIDE VÀ CÁC CHẤT CHUYỂN HÓA TỪ NÓ: TỔNG QUAN VỀ CÁC TÁC ĐỘNG DƯỢC LÝ CỦA NÓ TRÊN DA

 

Lim TG và cs.

Archives of Dermatological Research, 2015: 1569-8

Các ginsenosid là các hợp chất có dược tính tiêu biểu được tìm thấy ở nhiều dạng khác nhau trong Nhân sâm (Panax ginseng), một cây dược liệu truyền thống. Chúng được biến đổi thành các chất chuyển hóa của chúng ginsenosid-Rg2, ginsenosid-Rg3, hợp chất K và những hợp chất khác bởi vi sinh đường ruột sau khi uống. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tác dụng có lợi của ginsenosid chống lại các quá trình phân tử bất thường gây ung thư, bệnh về chuyển hóa và bệnh thoái hóa thần kinh. Gần đây, các tác dụng chống lão hóa trên da đã được báo cáo từ các dữ liệu thử nghiệm lâm sàng và mô hình in vitro. Vì vậy ginsenosid được đề xuất như là các tác nhân mỹ phẩm tự nhiên đầy triển vọng. Trong bài tổng quan này, chúng tôi sẽ tổng kết lại những điều quan trọng về các tác dụng sinh học đã được biết của một số ginsenosid (Rb1, Rg3, Rd và hợp chất K), chẳng hạn như các hoạt tính kháng viêm, kháng ung thư phát sinh do sự điều hòa của các con đường phân tử khác nhau. Tiềm năng ứng dụng của các ginsenosid như là những hoạt chất mỹ phẩm cũng được tổng kết lại.

T. Đ. Phương

BỘT NHÂN SÂM ĐÔNG KHÔ TINH KHIẾT BST204 CẢI THIỆN SỰ KIỆT SỨC VÀ ĐỘC TÍNH LIÊN QUAN ĐẾN HÓA TRỊ LIỆU UNG THƯ Ở CHUỘT NHẮT TRẮNG

 

Hyun-Jung Park và cs.

Evid Based Complement Alternat Med.2015; 2015:197459

Sự kiệt sức liên quan đến ung thư (CRF) là một trong những tác dụng phụ thường gặp nhất của bệnh ung thư cũng như phác đồ điều trị bệnh ung thư. Phần lớn các bệnh nhân bị ung thư trải qua sự suy kiệt về thể chất và thần kinh liên quan đến bệnh lý, do đó cần thiết có những chiến lược mới cho việc điều trị và cải thiện sự sống của bệnh nhân mắc bệnh ung thư. BST204 đã được bào chế bằng cách ủ cao chiết thô từ nhân sâm với enzym ginsenoside-β-glucosidase. Mục tiêu của nghiên cứu này là kiểm tra tác dụng của hỗn hợp các ginsenoside BTS204 trên sự suy kiệt liên quan đến ung thư gây bởi 5-fluorouracil (5-FU) trong quá trình tổng hợp glycogen và các thông số sinh hóa ở chuột. Chuột được chia ngẫu nhiên theo các nhóm sau: nhóm bình thường, nhóm được tiêm tế bào HT-29 (xenograft), nhóm xenograft được điều trị bởi 5-FU (đối chứng), nhóm xenograft + 5-FU và BST204 (liều 100 và 200 mg/kg) và nhóm xenograft + 5-FU và modafinil (liều 13 mg/kg). Hoạt động chạy trên bánh xe và thời gian bơi dưới áp lực của chuột được sử dụng để đánh giá CRF. Đo các thông số glycogen ở cơ, các cytokin gây viêm trong huyết thanh, aspartic aminotransferase (AST), alanin aminotransferase (ALT), creatinin (CRE), tế bào bạch cầu (WBC), bạch cầu trung tính (NEUT), tế bào hồng cầu (RBC), hemoglobin (HGB). Nhóm điều trị bằng BST204 làm tăng các hoạt động chạy trên bánh xe và thời gian bơi dưới áp lực của chuột đạt ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng. Kết hợp với các kết quả trên hành vi, BTS204 còn làm tăng rõ rệt hàm lượng glycogen trong cơ, nồng độ của WBC, NEUT, RBC và HGB. Ngoài ra, yếu tố gây hoại tử khối u (TNF – α), interleukin-6 (IL-6), AST, ALT và CRE trong huyết thanh giảm đạt ý nghĩa thống kê ở nhóm được điều trị bằng BST204 so với nhóm đối chứng. Kết quả cho thấy rằng BST204 có thể cải thiện sự kiệt sức và các tác dụng phụ có độc tính liên quan đến hóa trị liệu ung thư ở chuột nhắt trắng.

N.H.Minh

SÂM TAM THẤT KÍCH THÍCH HOẠT TÍNH CỦA ENZYME ALKALINE PHOSPHATASE, SỰ TỔNG HỢP COLLAGEN VÀ SỰ TẠO KHOÁNG TRONG TẾ BÀO OSTEOBLAST OSTEOBLAST MC3T3- E1

Zhe Ji và cs.

In Vitro Cell Dev Biol Anim, 2015 Apr 23

Saponin toàn phần trong sâm tam thất (PNS) đã được sử dụng rộng rãi để điều trị một số bệnh như gãy xương, chấn thương mô mềm,… Trong nghiên cứu này, tế bào osteoblast MC3T3- E1 ở vòm sọ chuột đã được nuôi cấy trong PNS ở các nồng độ khác nhau (từ 0,005-5 mg/ml) với các khoảng thời gian (1, 5, 14 và 23 ngày). Tại thời điểm cuối, khả năng tạo xương của các tế bào MC3T3- E1 đã được đánh giá bằng cách đo hoạt tính của alkaline phosphatase (ALP), lượng canxi được huy động từ xương và các biểu hiện của các marker liên quan đến sự tạo xương bao gồm collagen xương tuýp 1 (Col 1), osteoblast (OCN). So sánh các nhóm với nhau trong từng thời điểm, kết quả cho thấy những nồng độ ở khoảng giữa 0,05- 0,5 mg/ml cho tác dụng rõ rệt nhất (P<0,05) và sự tăng sinh tế bào thể hiện rõ trong thời kỳ tạo xương. Hơn nữa, điều trị bằng PNS làm tăng hoạt độ ALP của tế bào trong suốt thời gian 7, 14, 21 ngày; sự tạo khoáng được tăng lên ở ngày 14 và 21. Ngoài ra, các marker chuyên biệt Col 1 và OCN tăng ở các tế bào được điều trị với PNS. Sự khảo sát của nhóm nghiên cứu cho thấy rằng PNS có khả năng kích thích quá trình tạo xương gồm tăng sinh tế bào tạo xương, sự biệt hóa và khoáng hóa bằng cách làm tăng hoạt tính ALP tế bào, tăng sự khoáng hóa chất nền ngoại bào và tăng các phân tử kết hợp với tế bào tạo xương.

N.H.Minh

GISENOSIDE  Rb1 LÀM SUY GIẢM PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ BỤNG GÂY BỞI ANGIOTENSIN THÔNG QUA BẤT HOẠT CÁC CON ĐƯỜNG TRUYỀN TÍN HIỆU JNK VÀ p38.

 

Zhang XJ  và cs.

Vascul. Pharmacol,. 2015 Apr 22: S1537-1891(15)00072-5

Tóm tắt:

Phình động mạch chủ bụng (AAA), một căn bệnh về mạch máu đe dọa mạng sống, tỷ lệ mắc bệnh chiếm khoảng 10% ở người trên 65 tuổi. Hiện nay chưa có phương pháp thỏa đáng để điều trị AAA. Ginsenoside Rb1 và Rg1 là thành phần chính của Panax notoginseng (sâm Tam thất, Điền thất) để điều trị các bệnh tim mạch, nhưng ảnh hưởng của chúng trên AAA chưa được nghiên cứu cụ thể.

Phương pháp và kết quả:

Mô hình AAA được gây bằng cách truyền Ang II ở chủng chuột ApoE-/-. Sau khi kích thích liên tục Ang II trong 28 ngày, phình động mạch chủ trên thận phát triển ở 77% chuột và 12% chuột đã chết đột ngột do AAA vỡ. Điều trị bằng ginsenoside Rb1 (20 mg/kg/ngày) làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của AAA, nhưng không thể hiện kết quả khi uống ginsenoside Rg1. Điều trị bằng ginsenoside Rb1 ức chế một cách đáng kể việc mở rộng đường kính bị gây ra bởi Ang II, ức chế thoái hóa chất nền ngoại bào, ức chế sự sinh matrix metalloproteinase (MMP), ức chế thâm nhiễm tế bào viêm và rối loạn chức năng tế bào cơ trơn mạch máu (VSMC). Nghiên cứu cơ chế chỉ ra rằng tác dụng bảo vệ của ginsenoside Rb1 có liên quan với sự bất hoạt của con đường truyền tín hiệu JNK và p38 MAPK. Anisomycin, chất hoạt hóa đặc hiệu của JNK và p38, gần như phá hủy hiệu lực ức chế của ginsenoside Rb1 trên sự sản sinh matrix metalloproteinase của tế bào cơ trơn mạch máu.

Kết luận:

Ginsenoside Rb1, như một tác nhân kháng AAA tiềm năng, ức chế AAA thông qua ức chế các đường truyền tín hiệu JNK và p38.

M.T.Chung

SỰ PHỐI HỢP DỊCH CHIẾT TOÀN PHẦN ASTRAGALUS VÀ SAPONIN TOÀN PHẦN TAM THẤT (PANAX NOTOGINSENG) TĂNG CƯỜNG TÁC DỤNG BẢO VỆ TỔN THƯƠNG NÃO THÔNG QUA CẢI THIỆN CHUYỂN HÓA NĂNG LƯỢNG VÀ ỨC CHẾ APOPTOSIS SAU KHI GÂY THIẾU MÁU NÃO CỤC BỘ TRÊN CHUỘT

 

Huang XP và cs.

Chin J Integr Med. 2015 Mar 24

Mục tiêu:

Tìm hiểu tác động và cơ chế phân tử của sự phối hợp giữa dịch chiết toàn phầnAstragalus (TAE) và saponin toàn phần của Panax notoginseng (TPNS) chống lại tổn thương thiếu máu não cục bộ.

Phương pháp:

6 con chuột chủng C57BL được chia ngẫu nhiên vào nhóm chứng sinh lý (sham-operated), nhóm mô hình, nhóm TAE (110 mg/kg), nhóm TPNS (115 mg/kg), nhóm phối hợp TAE-TPNS và nhóm đối chiếu Edaravone (4 mg/kg), điều trị 4 ngày, sau đó, tổn thương thiếu máu não cục bộ  được gây bởi sự buộc thắt hai bên động mạch cảnh chung (CCA) trong 20 phút và tiếp theo là cho phục hồi lại dòng máu trong 1 giờ và 24 giờ.

Kết quả:

TPNS làm tăng hàm lượng adenosine triphosphate (ATP), TAE và sự phối hợp TAE-TPNS làm tăng ATP, hàm lượng adenosine diphosphate (ADP) và hoạt tính Na+-K+-ATPase, và tác dụng của sự phối hợp TAE-TPNS mạnh hơn TAE hoặc TPNS đơn lẻ sau khi phục hồi lại dòng máu trong 1 giờ. Sau khi phục hồi lại dòng máu trong 24 giờ, TAE, TPNS và sự phối hợp TAE-TPNS làm tăng đáng kể tỷ lệ sống của tế bào thần kinh và giảm tỷ lệ apoptosis cũng như điều hòa giảm (down-regulated) sự biểu hiện của c-June N-terminal kinase 1/2 được phosphoryl hóa (p-JNK1/2), cytochrome C (cyt C), cysteine aspartic acid-protease (Caspase)-9 đặc hiệu và Caspase-3. Các tác động của sự phối hợp TAE-TPNS tốt hơn so với TAE hoặc TPNS đơn lẻ.

Kết luận:

Sự kết hợp của TAE 110 mg/kg và TPNS 115 mg/kg có thể tăng cường tác dụng bảo vệ trước tổn thương thiếu máu não cục bộ, các cơ chế tiềm ẩn có thể liên quan đến việc cải thiện cùng sự chuyển hóa năng lượng sớm và làm giảm hiện tượng apoptosis chậm thông qua con đường ức chế apoptosis ty thể của sự truyền tín hiệu JNK.

M. T.Chung

SỰ BỔ SUNG DỊCH CHIẾT QUẢ NHÂN SÂM CẢI THIỆN SỰ SUY GIẢM TÍN HIỆU INSULIN  LIÊN QUAN ĐẾN SỰ LÃO HÓA TRÊN CHUỘT NHẮT TRẮNG

 

Eunhui Seo và cs.

Nutrients, 2015 Apr 22, 7(4): 3038-53

Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá tác dụng của dịch chiết quả nhân sâm trên độ nhạy của insulin và các cơ chế phân tử liên quan ở chuột nhắt trắng già. Chuột nhắt trắng chủng C57BL/6 (15 tháng tuổi) được nuôi ở chế độ ăn uống bình thường (CON) hoặc chế độ ăn uống bình thường có bổ sung 0.05%  dịch chiết quả nhân sâm (GBD) trong 24 hoặc 32 tuần. Chuột được nuôi với GBD (GBD-fed) thể hiện mức insulin trong huyết tương (p = 0.016) và điểm kháng insulin (HORMA-IR) (p = 0.012) thấp hơn đáng kể, cho thấy rằng GBD đã cải thiện độ nhạy của insulin. Chứng phì đại của tiểu đảo tuyến tụy cũng được cải thiện trên chuột GBD-fed (p = 0.007). Lượng protein của chất nền tyrosine phosphorylated insulin receptor (IRS)-1 (p = 0.047), và protein kinase B (AKT) (p = 0.037), thì được điều chỉnh tăng trong cơ của chuột GBD-fed được tiêm insulin hơn là chuột được nuôi với CON (CON-fed). Sự biểu hiện của protein hộp đầu chẻ O1 (FOXO1) (p = 0.036) và gamma receptor hoạt hóa sự tăng sinh của peroxisome (PPARγ) (p = 0.032), được biết như là các gen liên quan đến sự kháng insulin và sự lão hóa, cũng tăng lên trong cơ của chuột GBD-fed. Chúng tôi kết luận rằng khẩu phần ăn có bổ  sung dịch chiết quả nhân sâm có thể làm tăng hoạt tính của IRS-1 và AKT, góp phần cải thiện độ nhạy insulin ở chuột  nhắt trắng già.

INSENOSIDE Rg3 GÂY CHẾT TẾ BÀO UNG THƯ MÁU NGƯỜI THÔNG QUA SỰ KÍCH HOẠT PROTEIN X KẾT HỢP VỚI Bcl2

 

Luo Y và cs.

Mol Med Rep. 2015 May 19

Ginsenoside Rg3 là một trong những thành phần chính được phân lập từ Nhân sâm Panax ginseng và có tác dụng độc tế bào trên các tế bào ung thư. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tác dụng của ginsenoside Rg3 đối với tế bào ung thư máu người và xác định các cơ chế phân tử cơ bản. Các tế bào được tiếp xúc với ginsenoside Rg3 ở các nồng độ khác nhau (0-80 µM) trong 48 giờ. Một thử nghiệm tăng sinh tế bào tiếp theo đã chứng minh rằng với việc điều trị bằng ginsenoside Rg3 ức chế theo liều sự tăng sinh các tế bào U266 và RPMI8226. Hơn nữa, sự tiếp xúc với ginsenoside Rg3 làm gia tăng đáng kể tốc độ chết theo chương trình (apoptosis) trong tế bào U226 cùng với tăng hoạt động caspase 3. Những tế bào được điều trị bằng ginsenoside Rg3 có sự gia tăng biểu hiện protein X được kết hợp với tế bào B lymphoma 2 (Bax), một protein tiền hoại tử. Đáng chú ý, sự phá hủy Bax đã bảo vệ tế bào U266 trước tác động gây apoptosis của ginsenoside Rg3. Tổng hợp những dữ liệu này cho thấy rằng ginsenoside Rg3 gây apoptosis tế bào ung thư máu người, một phần thông qua cơ chế điều hòa tăng sự biểu hiện của Bax.

C.T. M. Duyên

MỘT BÁO CÁO BAN ĐẦU: LIỀU CAO NHÂN SÂM CHÂU Á (PANAX GINSENG) TRONG ĐIỀU TRỊ KIỆT SỨC LIÊN QUAN ĐẾN UNG THƯ

Yennurajalingam S và cs.

Integr Cancer Ther, 2015 Apr 14

1. Giới thiệu và mục tiêu: Sự mệt mỏi-kiệt sức liên quan đến bệnh ung thư (CRF) là triệu chứng phổ biến và trầm trọng nhất đối với bệnh nhân bị ung thư. Số lượng và hiệu quả những phương pháp sẵn có cho việc điều trị CRF là hạn chế. Mục tiêu của nghiên cứu ban đầu này là đánh giá sự an toàn của liều cao Nhân sâm (PG) cho CRF.

2. Phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm trên 30 bệnh nhân bị CRF (≥4/10) được uống PG liều cao 800 mg liên tục trong vòng 29 ngày. Mức độ và các loại tác dụng phụ được xác định bởi Tiêu chuẩn chung về tác dụng phụ của Viện Ung thư quốc gia, phiên bản 4.0. Việc cho điểm dựa trên Thang điểm đánh giá khả năng trị liệu các bệnh mãn tính- mức độ mệt mỏi (FACIT-F), hệ thống đánh giá triệu chứng Edmonton (ESAS), mức độ lo âu và trầm cảm của bệnh nhân nằm viện (HADS) được đánh giá ở mức cơ bản (thời điểm ban đầu), vào ngày 15 và ngày 29. Sự đánh giá triệu chứng toàn bộ (GSE) thì được thực hiện vào ngày 29.

3. Kết quả: trong số 30 bệnh nhân tham gia thì có thể đánh giá được 24 bệnh nhân (80 %). Tuổi trung bình là 58 tuổi, 50 % là nữ, 84 % da trắng. Không thấy tác dụng phụ nghiêm trọng (≥ mức 3) khi dùng thuốc . Trong số 24 bệnh nhân đó, 21 người (87 %) thì đã được cải thiện (≥ 3 điểm) FACIT-F ở ngày 15. Điểm số ESAS trung bình (độ lệch chuẩn) cho cải thiện tốt từ 4,67 (2,04) đến 3,50 (2,34) (P = 0,01374). Điểm số cho mức độ ăn ngon miệng đã tăng từ 4,29 (2,79) lên 2,96 (2,46) (P= 0,0097). Điểm số GSE của Nhân sâm cho điều trị mệt mỏi-kiệt sức ≥ mức 3 đạt 15 trong số 24 bệnh nhân (63%) với mức cải thiện trung bình (5).

4. Kết luận: PG thì an toàn và cải thiện CRF (mệt mỏi) cũng như chất lượng cuộc sống nói chung, sự thèm ăn, ngủ tốt vào ban đêm. Thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng của PG điều trị CRF đã được thẩm định.

C.T. M. Duyên

XÁC ĐỊNH PANXYNOL, MỘT CHẤT HOẠT HÓA TỰ NHIÊN YẾU TỐ Nrf2 (NUCLEAR FACTOR ERYTHROID-2 RELATED FACTOR 2) TRONG SÂM MỸ NHƯ LÀ MỘT CHẤT ỨC CHẾ PHÌ ĐẠI CƠ TIM GÂY BỞI ĐẠI THỰC BÀO BỊ VIÊM

Qu C và cs.

J Ethnopharmacol, 2015 Jun 20

Sự liên hệ ethnopharmacological:

Nhân sâm (Mỹ) có khả năng trong việc cải thiện rối loạn chức năng tim và kích hoạt Nrf2, một chất điều hòa khả năng chống oxy hóa ở tim. Nghiên cứu này được thiết lập để phân lập các hợp chất từ Sâm Mỹ và xác định hợp chất nào có khả năng kích hoạt Nrf2, ức chế phì đại cơ tim gây bởi đại thực bào bị viêm.

Vật liệu và phương pháp:

Dịch chiết toàn phần sâm Mỹ được cung cấp bởi Hội đồng nghiên cứu quốc gia Canada, Viện tiêu chuẩn đo lường quốc gia. Sự phân đoạn dựa trên thử nghiệm sinh học của Sâm Mỹ được thực hiện để xác định những chất tinh khiết có thể kích hoạt sự ức chế qua trung gian Nfr2 của biểu hiện cytokine tiền viêm trong các đại thực bào và sự tăng trưởng phì đại qua trung gian đại thực bào trong tế bào cơ tim.

Kết quả:

Phân đoạn hexan của dịch chiết toàn phần có tác dụng kháng viêm của sâm Mỹ đã được chứng minh có hiệu quả trong việc ức chế những phản ứng viêm trong đại thực bào. Phân tích HPLC pha đảo và phân tích so sánh bằng LC-UV/MS cho thấy phân đoạn hexan chứa chủ yếu là polyacetylen C17 và acid linolenic. Panaxynol, một trong những polyacetylen chính đã được xác định là một hoạt chất kích hoạt Nrf2 mạnh. Panaxynol đã kích hoạt phiên mã Nrf 2 bằng cách ức chế sự thoái hóa qua trung gian của protein liên kết với ECH như Kelch (Keap)-1, mà không ảnh hưởng đến liên kết giữa Keap-1 và Nrf 2. Hơn nữa, panaxynol đã ức chế chọn lọc sự biểu hiện của cytokine thông qua sự kích hoạt Nrf2 và điều hòa tối thiểu sự biểu hiện cytokine qua trung gian nuclear factor-kappa B (NF-κB) trong đại thực bào. Panaxynol cũng ức chế đáng kể sự chết và phì đại cơ tim gây bởi đại thực bào bị viêm bằng cách kích hoạt Nrf2 trong đại thực bào.

Kết luận:

Những kết quả này đã chứng minh rằng panaxynol từ sâm Mỹ là một chất kích hoạt Nrf2 đặc hiệu và những tín hiệu Nrf2 được kích hoạt bởi panaxynol cũng đã mang lại lợi ích của Sâm Mỹ cho sức khỏe của tim.

C.T. M. Duyên

KHẢO SÁT TÁC DỤNG CỦA HỒNG SÂM HÀN QUỐC TRÊN CÁC THÔNG SỐ TINH DỊCH Ở BỆNH NHÂN NAM VÔ SINH: MỘT NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG NGẪU NHIÊN, ĐỐI CHIẾU GIẢ DƯỢC, MÙ ĐÔI

 

Park HJ và cs.

Chin J Integr Med. 2015 May 12

 

Mục tiêu:

Khảo sát tác dụng của Hồng sâm Hàn Quốc trên các thông số tinh dịch của những bệnh nhân nam bị vô sinh được chọn ngẫu nhiên, điều trị đồng thời với giả dược để tăng sự khách quan của thực nghiệm.

Phương pháp:

Tổng cộng 80 bệnh nhân nam bị vô sinh giãn tĩnh mạch thừng tinh được chọn lọc từ tháng 4 năm 2011 đến tháng 2 năm 2012. Các đối tượng sau đó được chia thành bốn nhóm sau: Nhóm không bị giãn tĩnh mạch thừng tinh uống giả dược (non-V + P), nhóm bị giãn tĩnh mạch thừng tinh uống giả dược (V+P), nhóm không bị giãn tĩnh mạch thừng tinh uống Hồng sâm Hàn quốc liều 1,5g/ngày (non-V + KRG) và nhóm bị giãn tĩnh mạch thừng tinh uống Hồng sâm Hàn Quốc liều 1,5 g/ngày (V + KRG). Tiến hành phân tích tinh dịch và định lượng hormon ở mỗi nhóm sau 12 tuần.

Kết quả:

Tất cả các nhóm ngoại trừ nhóm non-V + P, cho thấy sự cải thiện đáng kể về nồng độ, khả năng vận động, hình thái và khả năng sống sót của tinh trùng đến thời điểm cuối trong nghiên cứu. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể về hormon kích thích nang trứng FSH, hormone  hoàng thể LH, testosteron trong huyết thanh giữa các nhóm. Tỷ lệ các tác dụng phụ là thấp và tất cả các dữ liệu này đã được xác định là không liên quan đến các phương pháp điều trị.

Kết luận:

Mặc dù cơ chế chính xác mà Hồng sâm Hàn Quốc cải thiện sự sinh tinh vẫn chưa rõ ràng, nhưng dược liệu này có thể là một tác nhân hữu ích cho việc điều trị vô sinh nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu bổ sung để đánh giá liều điều trị tối ưu và thời gian điều trị là cần thiết.

N.L.Nhân

CÁC HỢP CHÂT SAPONIN TỪ PANAX JAPONICUS GIẢM SỰ SUY GIẢMNHẬN THỨC DO D-GALACTOSE GÂY RA THÔNG QUA TÁC DỤNG KHÁNG OXY HÓA VÀ KHÁNG APOPTOSIS CỦA NÓ TRÊN CHUỘT

 

Wang T và cs.

J Pharm Phamarcol, 2015 Apr 18

Mục tiêu:

Nghiên cứu tác dụng và cơ chế cơ bản bảo vệ thần kinh của các hợp chất saponin từPanax japonicus (SPJ) trên mô hình D-galactose (D-gal) gây lão hóa não.

Phương pháp:

SPJ được phân tích bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao. Chuột cống trắng đực chủng Wistar có trọng lượng 200 ± 20 g được chia ngẫu nhiên thành bốn nhóm: nhóm chứng (nước muối sinh lý), nhóm được tiêm D-gal dưới da (400 mg/kg), nhóm D-gal + SPJ (cho uống liều 50, 100 và 200 mg/kg) và nhóm vitamin E (100 mg/kg). Chuột được tiêm liều thuốc tương ứng một lần mỗi ngày liên tục trong 8 tuần. Tác dụng bảo vệ thần kinh của SPJ được đánh giá bằng các thực nghiệm in vivo như mê cung nước Morris, quan sát mô bệnh học, xét nghiệm sinh hóa, phân tích western blot và định lượng Real-time PCR cũng như các khảo nghiệm in vitro đo lường các gốc tự do oxy hóa (ROS) và phân tích quá trình chết của tế bào.

Những phát hiện chính:

Nghiên cứu hiện tại cho thấy rằng D-gal gây độc tính lên thần kinh ở chuột và trong các tế bào SH-SY5Y do cảm ứng stress oxy hóa, bao gồm giảm tổng năng lực chống oxy hóa, hoạt tính của enzyme superoxide dismutase (SOD) và glutathione peroxidase, cuối cùng dẫn đến việc suy giảm trí nhớ và nhận thức về không gian ở chuột đồng thời tích tụ ROS trong các tế bào SH-SY5Y. SPJ cải thiện trí nhớ và nhận thức về không gian, giảm tổn thương mô bệnh học ở vùng đồi hải mã và phục hồi khả năng chống oxy hóa cũng như khả năng chống lại chu trình tế bào tự chết ở chuột bị lão hóa do D-gal. Ngoài ra, SPJ giảm đáng kể mức lipofuscin, tăng Nrf2 (nuclear factor erythroid 2-related factor 2) tại vùng đồi hải mã cùng mức protein SIRT1 (silent mating type information regulation 2 homologue) cũng như kích thích sự biểu hiện các gen chống oxy hóa như manganese superoxide dismutase (Mn-SOD), hemeoxygenase (HO-1), NAD(P)H quinoneoxidoreductase 1 (NQO1) và cysteine ​​ligase catalytic (GCLC) trong mô hình D-gal gây lão hóa não.

Kết luận:

Từ các thông số cho thấy D-gal gây ra nhiều biến đổi cấp độ phân tử và chức năng trong não tương tự như quá trình lão hóa tự nhiên. SPJ bảo vệ não khỏi bị tổn thương thần kinh do D-gal gây ra bằng cách giảm bớt stress oxy hóa và quá trình tự chết của tế bào, và cuối cùng là cải thiện khả năng nhận thức trong thực nghiệm gây lão hóa não do D-gal. Nrf2 và đường dẫn tín hiệu chống oxy hóa qua trung gian SIRT1được cho rằng có liên quan đến kết quả trên.

N.L.Nhân

SAPONIN TỪ TAM THẤT KHỞI PHÁT AN TOÀN CHỨC NĂNG TIM MẠCH VÀ HÌNH THÀNH MẠCH MỚI TRONG NHỒI MÁU CƠ TIM Ở CHUỘT THÔNG QUA CON ĐƯỜNG PI3K/AKT 

 

Caixia Guo và cs.

JACC March 17, 2015 Volume 65, Issue 10S

 

Saponin Tam thất Panax notoginseng (PNS) là một trong những hợp chất quan trọng nhất có nguồn gốc từ rễ của các loại thảo dược chi Panax. Tam thất thường xuyên được sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ tim mạch. Trong khi đó, để điều trị bệnh thiếu máu cục bộ cơ tim thì việc hình thành mạch máu mới để tăng cung cấp máu là rất tiềm năng. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm kiểm tra xem PNS có thúc đẩy chức năng tim và tạo mạch trong nhồi máu cơ tim và xác định vai trò của con đường PI3K/Akt. Chuột sau khi thắt động mạch vành trái 1 tháng được uống hoặc tiêm màng bụng PNS, nhóm chứng dùng cùng lượng dung dịch muối đẳng trương. Sau đó đánh giá chức năng tim bằng echocardiographically và sự hình thành mạch mới được đánh giá mô học bốn tuần sau điều trị. Kết quả cho thấy diện tích tim nhồi máu giảm xuống, trên mô học nhận thấy các vết sẹo collagen đã cải thiện chức năng thất trái và tu sửa trong vùng nhồi máu so với nhóm chứng dùng dung dịch muối đẳng trương. Siêu âm tim cũng cho thấy sự cải thiện đáng kể phân suất tống máu và rút ngắn phân đoạn trong nhóm PNS. Trong khi đó, sự hình thành mạch ở khu vực nhồi máu được tăng cường đáng kể so sánh với nhóm chứng, bằng chứng là mật độ sợi cơ actin α-mịn trên tim và CD31 trong mạch được gia tăng. Tương tự như vậy, biểu hiện mRNA của VEGF và Angiotesin-1 được tăng cường. Hơn nữa, sau khi điều trị với PNS sự phosphoryl hóa thông qua con đường PI3K / Akt đã được tăng cường. Tóm lại, những kết quả này lần đầu tiên cho thấy PNS giúp tăng sự hình thành mạch và duy trì chức năng tim mạch phần nào thông qua con đường PI3K/Akt và cung cấp một lời giải thích mới cho sự đa tác dụng của PNS trên hệ thống tim mạch.

P.T.Phượng


Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin tức y tế